Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Tản Mạn: Cá Hồi Tháng Năm

*
Đã cuối tháng Năm rồi mà trời vẫn lạnh. Nhưng hôm nay mặt trời ló dạng suốt ngày. Những tia nắng ấm dù muộn màng rồi cũng về, nấn ná ở lại. Trời ấm, cây cỏ trổ mầm xinh tươi. Miền đất cây xanh quanh năm hôm nay lại xanh hơn nửa. Màu xanh lá mạ của những chùm lá non vừa trổ ra khắp nơi. Ánh nắng chan hòa làm cây lá rực rở hẳn lên

Lại ngồi trong thư viện Renton chăm chú nhìn dòng sông chảy qua bên dưới. Thư viện vẫn vắt vẻo trên dòng sông Cedar. Nước vẫn chảy hoài bên dưới, tuy không siết lắm, nhưng có lẽ cũng đủ làm cực nhọc những con cá hồi đang cố bơi lên ngược dòng kia. Nhìn chúng cố sức mà thấy thật tội nghiêp, hình như chúng không bơi được thêm tí nào. Những con cá hồi to bằng bắp tay, nhìn từ trên cao xuống chỉ thấy lưng cá dài dài đen đen, xen lẫn vào màu sỏi đá bên dưới làn nước trong vắt sâu chưa tới đầu gối . Cả đàn cá  như đứng tại chổ, thật ra, chúng đang cố sức bơi lên, bơi lên.

Nguời ta nói rằng những con cá này sẽ bơi không nghĩ, ngày và đêm. Từ ngày rời đại dương  về lại dòng sông xưa,  chúng không ăn thêm gì nửa cả. Chúng sẽ cố bơi lên tận đầu nguồn sông Cedar nơi chúng đuợc sinh ra. Chúng sẽ phải vượt qua bao nhiêu chướng ngại vật con người tạo ra trên dòng sông. Bây giờ nhìn chúng vẫn như những con cá bình thuờng, nhưng thật ra một phần thân xác đã rả rời mục nát. Nếu may mắn bơi được về đến nơi ngày xưa chúng được sinh ra, chúng sẽ dồn hết sức lực còn lại tìm một bải sạn sạch sẽ, vắng vẻ để đẻ trứng. Những con cá đực lúc nào cũng quấn quít bên cạnh chờ đợi sẽ làm nhiệm vụ duy trì nòi giống. Và cả cha lẫn mẹ, sau cuộc hành trình cực nhọc cuối cùng, sẽ kiệt lực và chết những ngày  sau đó. Thân xác sẽ mục rửa để bầy con có chút thức ăn lấy sức cho cuộc hành trình về biển.

Vậy đó các bạn ạ, những con cá hồi này có lẽ chỉ làm theo bản năng sinh tồn. Sinh ra từ dòng sông,  ra đi và lớn lên trong đại dương bao la xanh thẳm. Có bơi đi xa thật xa nhưng rồi sẽ có một ngày như tháng Năm hôm nay, chúng lại lặn lội vất vả tìm về lại nơi chúng đã được sinh ra.  Sẽ sinh con đẻ cái, sẽ kiệt sức và sẽ chết trên dòng sông ấy.

Tạo hóa thật diệu kỳ! Nhìn những con cá hồi mà lòng chợt bồi hồi, sao người ta gọi chúng là cá hồi nhỉ? Có phải tại chúng phải trở về nơi chốn chúng được sinh ra, như một cuộc hồi hương định mệnh? Còn con người có vậy không nhỉ? Những người phải đi xa tha phương cầu thực, phải rời bỏ quê nhà vì cuộc sống, chắc cũng mong đợi ngày hồi hương. Họ nung nấu bao khát vọng sẽ có ngày tìm về nơi chôn nhau cắt rún.  Có lẽ họ chỉ chờ có dịp như những con cá kia để về lại quê cha đất tổ. Họ không phải trở về để duy trì nòi giống, nhưng nổi khao khát trở về cội nguồn chắc cũng mảnh liệt như những con cá hồi kia.

Những con cá hồi kia vẫn đang bơi bơi, bơi mãi ngược dòng sông. Chúng đã về đến được thư viện rồi.

Đầu nguồn dòng sông ở đâu nhỉ? Có còn xa lắm không?

**
*

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

Lịch Sử Trường Y Khoa trước 1975

Nhờ một người bạn mách nước, mình tìm thấy tấm hình trường Y chụp trước 1975 này.  Cổng trường ghi: "Bộ Đại Học Sài Gòn - Trung Tâm Giáo Dục Y- Khoa". Nhìn khang trang, sáng sủa, bề thế quá. Chắc tại không có nhiều cây trồng lung tung, không có nhà xây cất thêm, cũng không có bảng hiệu chắn ngang ngay  cổng  làm bận mắt
Đăng lên đây cho các bạn cùng xem

(ảnh trích từ otofun.net)


(Lịch sử trích từ ykhoasaigon.com)
Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn được thành lập vào năm 1946 tại Sài Gòn, trong thời gian của chiến tranh Đệ Nhị Thế Chiến, với tên trường là Faculté de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon, thời đó được coi là như một chi nhánh của Trường Thuốc Hà Nội ( Ecole de Médecine et de Pharmacie de Plein Exercise de l'Indochine, gọi tắt là Ecole de Médecine de Hanoi ). Cho tới thập niên 1940, VN chỉ có một trường Y duy nhất đó là YK Đại Học Hà Nội.

Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn được đặt tại số 28 đường Testard ( sau đổi tên là đường Trần Quý Cáp, nay là đường Võ Văn Tần ). Nơi đó là biệt thự của bà BS Henriette Bùi, con của BS Bùi Quang Chiêu. Trường là một biệt thự hai tầng: tầng trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi các sinh viên trình luận án - tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh, phòng hội và thư viện - đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở giửa xếp theo hình chử U.

Khoa trưởng của cả hai trường thời bấy giờ là Giáo Sư Huard, Giáo Sư Daléas làm Phó khoa trưởng kiêm phụ trách trường YKĐHSG nên cũng có thể coi là vị khoa trưởng đầu tiên của trường YKĐHSG.

Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người. Các lớp học được giảng dạy tại trường và tại các bệnh viện. Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2 người, nên đã dùng khả năng giảng huấn của các BS Quân y Pháp và các BS VN ở SG, niên khóa 1948-1949 có tới 10 GS trong đó có GS Massias (Nội Khoa) ở Hà Nội vào và GS Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về.

Chương trình giảng dạy theo khuôn chương trình của y khoa Pháp, dài 6 năm. Hai năm đầu gồm các môn căn bản: cơ thể học, mô học, sinh hóa, sinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và năm thứ tư gồm các môn: cơ thể bệnh lý và bệnh lý nội ngoại khoa, và thực tập tại các BV về nội khoa và ngoại khoa. Năm thứ năm và thứ sáu gồm các môn bệnh lý chuyên môn như nhi khoa, sản phụ khoa, và trị liệu pháp, và thực tập tại các BV. Cuối năm thứ sáu thi Bệnh lý và chuẩn bị luận án.

Lý thuyết và thực tập cho các môn căn bản được giảng dạy tại nhiều nơi như: Vi Ký sinh trùng: Viện Pasteur, Sinh Hóa: phòng thí nghiệm BV Đô Thành, Mô học và Cơ thể bệnh lý: quân y viện Coste ( BV của quân đội Pháp, sau này thành trường nữ trung học Trưng Vương), Cơ thể học: BV Chợ Rẫy. Các BV thực tập gồm: BV Grall, BV Chợ Rẫy (Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa), BV Đô Thành (Nội, Ngoại, Cấp Cứu, Tai Mũi Họng), BV Chợ Quán (Tâm Thần, Truyền Nhiễm), Bảo sanh viện Từ Dũ, Viện Bài Trừ Hoa Liễu.

Khóa YK ra trường đầu tiên vào năm 1947, có 7 sinh viên trình luận án đó là các BS: Pierre Boucheron, Trần Đình Đệ, Lê Văn Hùng, Trần Minh Mẫn, A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn Thọ. Số BS ra trường hằng năm cho cả hai trường SG và HN tính đến năm 1954 như sau: 1947: 7-4 ; 1948: 10-9 ; 1949: 5-7 ; 1950: 4-14 ; 1951: 4-1 ; 1952: 13-54 ; 1953: 3-5 ; 1954: 11-13. Số BS ra trường nhiều ít do ảnh hưởng của chiến tranh Đông Dương và tình hình chính trị bất ổn của thời đó.

Năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, đất nước tạm chia đôi bởi vĩ tuyến 17, và dân chúng hai miền có 3 tháng thời gian để di chuyển qua miền mình lựa chọn, ra Bắc hoặc vào Nam. Theo đó, đa số các GS trong Ban Giảng Huấn và 2/3 sinh viên YK đã vào Nam, do vậy số nhân viên giảng huấn và SV của trường YKĐHSG đã tăng lên gấp bội.

Do yêu cầu, một số cơ sở Y khoa được xây cất thêm tại Sài Gòn.
BV Bình Dân được hoàn thành năm 1955, do sự đóng góp của các nhà hảo tâm, đã được trao cho trường ĐHYKSG để trở thành khu Giải Phẩu B do GS Phạm Biểu Tâm điều hành cùng với một số nhân viên của BV Phủ Doãn ở Hà Nội vào. Sau đó BV được trang bị thêm cho các khu Nhãn khoa, Tai Mũi Họng, Niệu khoa, Bì phu và Ung thư.
BV Chợ Rẫy được đổi là khu Giải Phẩu A do GS Trần Quang Đệ điều hành.
BV Nhi Đồng được xây cất và hoàn thành năm 1956 với sự giúp đở của cơ quan UNESCO.
Cơ Thể Học Viện trên đường Trần Hoàng Quân ( nay là đường Nguyễn Chí Thanh ) do GS Nguyễn Hữu điều hành từ năm 1956.
BV Nguyễn Văn Học được mở ra năm 1967, gồm các bộ môn Nội, Ngoại, Sản, Nhi do Ban giảng huấn trường YKĐHSG đảm nhiệm.

Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Sài Gòn, được khởi đầu xây cất năm 1963 và hoàn tất năm 1966, với tổn phí 2 triệu rưởi mỹ kim, một nửa do chính phủ VN đài thọ, một nửa do chính phủ Mỹ viện trợ. Khu đất của trường YKSG trước khi xây cất là Tòa Bố, tọa lạc trên đường Hồng Bàng. Trường gồm hai cơ cấu kiến trúc lớn 4 tầng, nối liền bằng một hành lang, tạo thành hình chử H. Tầng trệt một bên là văn phòng trường Y, một bên là văn phòng trường Nha, cùng với một số giảng đường nhỏ và phòng họp. Các tầng trên dành cho các bộ môn: Cơ thể học, Sinh lý học, Cơ thể bệnh lý, Giải phẫu thực nghiệm, Mô học, Vi ký sinh trùng, Sinh hóa học. Một Đại giảng đường 300 chỗ, một thư viện, và một quán ăn cho SV nằm ở giửa hai cơ cấu trên. Quán ăn do các nữ tu dòng Mến Thánh Giá điều hành và đã cung cấp cho SV những bữa ăn ngon lành với giá rẻ. Trường YKĐHSG chính thức dọn vào vào tháng 6 năm 1966.

Trước năm 1945, VN chỉ có một đại học duy nhất đó là trường Đại Học Đông Dương (Université de l'Indochine) tại Hà nội do chính quyền bảo hộ Pháp điều hành. Một thỏa hiệp văn hóa giữa Pháp và VN ký ngày 30/12/1949 đổi tên trường lại là trường Đại học Hà Nội, do hai chính phủ Pháp Việt điều hành chung. Trường Đại học Hà Nội có hai trung tâm, một ở HN, một ở SG. Sau năm 1954, tại SG hai trung tâm sát nhập thành một bao gồm các phân khoa: Luật, Y Dược, Văn Khoa, Khoa học, Kiến trúc. Đến 1955, trường Đại học Hà Nội trở thành Đại học Quốc Gia VN, do chính phủ VN điều hành. Tới năm 1957, khi trường Đại học Huế mở cửa thì Đại học Quốc Gia đổi tên là Đại học Sài Gòn. Đại học Y Dược được chia làm hai phân khoa riêng biệt, Y và Dược, vào tháng 8 năm 1961. Năm 1963, bộ môn khẩu xoang tách rời khỏi Y khoa và trở thành Đại học Nha khoa. Khoa trưởng Dược khoa đầu tiên là GS Nguyễn Vĩnh Niên, và Khoa trưởng Nha khoa là GS Trịnh Văn Tuất.

Niên khóa 1954-1955, năm Y1 và Y2 có khoảng 70-80 SV cho mỗi lớp. SV đại học chỉ cần có một trong những bằng dự bị như PCB ( Physique, Chimie, Biologie ), SPCN ( Sciences, Physiques, Chimiques et Naturelles ) là có thể ghi danh vào học YK, hồi thời đó chưa có chương trình thi tuyển vào YK.
Số SV ghi danh nhập học YK ngày càng gia tăng, nên kể từ năm 1966, một kỳ thi tuyển hằng năm được tổ chức để chọn một số nhất định là 200 SV vào năm thứ nhất YK.

Thành phần GS đã có thêm: GS Phạm Biểu Tâm (Ngoại Khoa), GS Nguyễn Hữu (Cơ Thể Học), GS Trịnh Văn Tuất (Hàm Miệng), GS Nguyễn Đình Cát (Nhãn Khoa), GS Auguste Rivoalen (Nội Khoa), GS Montagné (Sản Phụ Khoa), sau đó GS Trần Ngọc Ninh (Chỉnh Trực) từ Pháp về năm 1954, GS Trần Vỹ (Sinh Lý Học) năm 1956, GS Trần Đình Đệ (Sản Phụ Khoa) năm 1956.

Sau một vài năm, các GS Pháp bắt đầu rời khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS Massias từ nhiệm, và GS Phạm Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS Phạm Biểu Tâm là vị Khoa Trưởng VN đầu tiên của trường YKSG.

Năm 1962 là năm cuối cùng mà bằng BS YK của trường YKĐHSG còn được công nhận tại Pháp.

Các vị Khoa Trưởng trường YKĐHSG lần lượt như sau:
1946-1950: GS Daléas
1950-1955: GS Charles Massias
1955-1967: GS Phạm Biểu Tâm
1967-1969: GS Ngô Gia Hy
1969-1970: GS Phạm Tấn Tước
1970-1971: GS Đào Hữu Anh
1971-1974: GS Đặng Văn Chiếu
1974-1975: GS Vũ Quí Đài
1975-

Qua sự khuyến khích và giúp đở của các GS Pháp, một số GS YKĐHSG đã qua Pháp tu nghiệp và trở về với bằng Thạc sĩ, từ năm 1960-1963, nhận thấy có: GS Nguyễn Huy Can (Cơ Thể Bệnh Lý), GS Lê Xuân Chất (Huyết Học), GS Đào Đức Hoành (Ung Thư), GS Bùi Quốc Hương (Thần Kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim Mạch), GS Ngô Gia Hy (Niệu Khoa), GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Trần Anh (Nhân Chủng Học). Trước đó có GS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa).

Sau đó năm 1965-1966, từ Mỹ về trường gồm có các vị: GS Đào Hữu Anh (Cơ Thể Bệnh Lý), GS Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực), GS Vũ Quí Đài (Vi Trùng Học), GS Nguyễn Khắc Minh (Gây mê), GS Đỗ Thị Nhuận (Vi Trùng Học), GS Bùi Duy Tâm (Sinh Hóa Học), GS Nguyễn Ngọc Giệp (Sản Phụ Khoa).
Tiếp theo, nhận thấy có : BS Trịnh Thị Minh Hà (Nhi Khoa, Mỹ), BS Trần Kiêm Thục (Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ). Nâng tổng số nhân viên giảng huấn lên 91 người cho niên khóa 1967-1968, với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên.

Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn YKĐHSG còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những bài này đã được liệt kê trong hai cuốn sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Văn Nguyên. Ngoài ra một tài liệu quí giá khác cũng nên nêu ra là cuốn Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, sách ghi lại đầy đủ tất cả các luận án đệ trình tại hai trường YK SG và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972. Trường cũng chủ trương một tờ báo y khoa tên là Acta Medica Vietnamica, xuất bản mỗi tam cá nguyệt, số báo đầu tiên ra mắt vào năm 1957, chủ nhiệm là GS Phạm Biểu Tâm. Báo được tiếp tục xuất bản cho tới năm 1975 thì ngưng hoạt động.

Có thể nói tổng số BS ra trường tại YKSG từ năm 1947 đến 1975 là khoảng 2380 người.
Một con số rất khiêm tốn nhưng đã đóng góp một phần rất lớn cho ngành Y Tế tại Việt Nam.

Tên Trường YKSG hiện tại:
Trường Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
217 Đường Hồng Bàng, Phường 11, Quận 5
Thành Phố Hồ Chí Minh,  VIET NAM
Phone: +84-8-8558411
Fax: +84-8-8552304

Các trường Y khoa tại VN:
1. Can Tho University, CAN THO
2. Centre Univ. de Form. et Perfect. des Prof. de Sante ( C.U.F ), HO CHI MINH CITY
3. Faculty de Medecine de Thai Binh, THAI BINH
4. Hai Phong Medical School, HAI PHONG
5. Ha Noi Medical School, HA NOI
6. Hue University, HUE
7. Institute of Military Medicine, HA DONG
8. Tay Nguyen Universite, BUON ME THUOT
9. Thai Nguyen Medical College, THAI NGUYEN CITY
10. University of Medicine of Ho Chi Minh City, HO CHI MINH CITY.

(Trích http://www.ykhoasaigon.com/)